Sửa Đổi Thông Tư 16: Ngân Hàng Có "Cứu" Được Trái Phiếu
SỬA ĐỔI THÔNG TƯ 16: NGÂN HÀNG CÓ "CỨU" ĐƯỢC TRÁI PHIẾU?
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa công bố dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều và ngưng hiệu lực một số điều tại Thông tư số 16/2021/TT-NHNN ngày 10/11/2021 quy định về việc tổ chức tín dụng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp. Dự thảo thông tư này ra đời khi trái phiếu doanh nghiệp vẫn đang là vấn đề quan trọng với nhiều vướng mắc khó khăn cần tháo gỡ.
Theo
phía Ngân hàng Nhà nước, hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp của các tổ
chức tín dụng đang cho thấy phát sinh tiềm ẩn rủi ro bởi chưa có quy định điều
kiện về năng lực tài chính với doanh nghiệp phát hành; cơ chế kiểm tra, giám
sát việc sử dụng vốn chưa chặt chẽ...
Điều
này dẫn đến hệ luỵ, các doanh nghiệp thông qua việc phát hành trái phiếu nhằm mục
đích đặt cọc, góp vốn, mua cổ phần, hợp tác kinh doanh, bổ sung vốn lưu động hoặc
thực hiện tăng vốn lớn trong thời gian ngắn để chứng minh năng lực tài chính.
Ngoài
ra, nhiều doanh nghiệp lấy tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nhưng chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đất thuê trả tiền hàng năm chưa đủ
điều kiện để nhận làm tài sản bảo đảm... Chất lượng tài sản bảo đảm không cao sẽ
gây rủi ro về khả năng thu hồi nợ của ngân hàng khi doanh nghiệp này rơi vào mất
khả năng thanh toán.
Với
những lý do trên, phía Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra nhiều thay đổi tại dự thảo
thông tư mới này. Các điểm mới tại dự thảo sửa đổi Thông tư số 16/2021/TT-NHNN
ngày 10/11/2021 quy định với tổ chức tín dụng như sau:
Thứ
nhất, dự thảo ngưng hiệu lực thi hành đối với quy định tại khoản 11 Điều 4
Thông tư số 16/2021/TT-NHNN đến hết ngày 31/12/2023. Theo đó, ngân hàng chỉ được
mua lại trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc
chưa đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch Upcom mà ngân hàng này đã bán
và/hoặc trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết được phát hành cùng lô/cùng đợt
phát hành với trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết mà tổ chức tín dụng đã bán.
Điều
kiện kèm theo là bên mua trái phiếu doanh nghiệp từ tổ chức tín dụng thanh toán
toàn bộ tiền tại thời điểm ký kết hợp đồng bán trái phiếu doanh nghiệp cho bên
mua trái phiếu; doanh nghiệp phát hành trái phiếu được xếp hạng ở mức cao nhất
theo quy định xếp hạng tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng tại thời điểm gần
nhất trước khi tổ chức tín dụng mua trái phiếu doanh nghiệp...
Thứ
hai, các tổ chức tín dụng có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền
thu từ trái phiếu của doanh nghiệp phát hành đảm bảo số tiền thu được sử dụng
đúng mục đích tại phương án, cam kết. Trường hợp phát hiện doanh nghiệp phát
hành không theo đúng cam kết, tổ chức tín dụng yêu cầu doanh nghiệp phát hành
mua lại trái phiếu trước hạn.
Với
doanh nghiệp phát hành, hệ số nợ phải trả (bao gồm cả khối lượng trái phiếu dự
kiến phát hành) không vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính quý
gần nhất tại thời điểm phát hành và đã được kiểm toán.
Ngoài
ra, tổ chức tín dụng khi mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong đó có mục
đích nhằm thực hiện bảo đảm nghĩa vụ, tổ chức tín dụng phải phong tỏa số tiền
mua trái phiếu cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Không những thế, các ngân
hàng phải sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt trong giao dịch mua
trái phiếu với bên bán trái phiếu.
Các
tiêu chí xác định phương án khả thi và tiêu chí xác định doanh nghiệp phát hành
trái phiếu có khả năng tài chính để đảm bảo thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu
đúng hạn phải theo quy trình nghiệp vụ, quy định quản lý rủi ro đối với hoạt động
mua, bán trái phiếu doanh nghiệp.
Theo
Ngân hàng Nhà nước, dự thảo lần này hướng đến phù hợp với thực tiễn, tình hình
hoạt động của các tổ chức tín dụng, góp phần bảo đảm an toàn với hoạt động ngân
hàng.
Giải
tỏa áp lực cho hệ thống ngân hàng
Đóng
góp ý kiến vào dự thảo, các chuyên gia tài chính đã chỉ ra một những điểm tích
cực của dự thảo lần này. Cụ thể, ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch kiêm Tổng
giám đốc FiinGroup cho rằng, việc cho phép mua trái phiếu doanh nghiệp trong đó
có mục đích bổ sung vốn lưu động khi quản lý được nguồn thu từ hoạt động kinh
doanh… Điều này sẽ góp phần tạo thuận lợi cho tổ chức tín dụng đầu tư trái phiếu
của các doanh nghiệp nhằm bổ sung vốn lưu động, thay vì phải gắn với phương án
phát hành cụ thể, thường chỉ được xác định được cho các chương trình, dự án đầu
tư tài sản cố định.
Hay
việc cho phép tổ chức tín dụng được phép mua lại trái phiếu doanh nghiệp chưa
niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch trên UpCOM mà tổ chức tín dụng trước đó đã
bán ra cũng rất có ý nghĩa.
Theo
ông Thuân, đây là vấn đề có ý nghĩa nhất với chính các tổ chức tín dụng trong bối
cảnh áp lực mua lại trái phiếu thời gian vừa qua khi nhà đầu tư yêu cầu tất
toán trước hạn. Nếu vậy áp lực mà một số tổ chức tín dụng đang gặp phải do trước
đó đã phân phối cho nhà đầu tư trong khi tổ chức phát hành gặp khó khăn về dòng
tiền và không thể mua lại sẽ phần nào được giải tỏa.
Bên
cạnh đó, dự thảo yêu cầu tổ chức tín dụng phải sử dụng thanh toán không dùng tiền
mặt để thanh toán số tiền mua trái phiếu doanh nghiệp cho doanh nghiệp hoặc bên
bán trái phiếu doanh nghiệp. Ông Thuân cho rằng, điều này nhằm kiểm soát giao dịch
và mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp thuận tiện hơn trong quá trình giám
sát tín dụng và quản trị rủi ro. Nhằm tránh tình trạng giao dịch tiền mặt và do
đó mục đích sử dụng vốn khó có thể đảm bảo việc xác minh và đánh giá bởi tổ chức
tín dụng hay các bên độc lập như kiểm toán mục đích sử dụng vốn.
Cũng
theo ông Thuân, một số quy định bổ sung hoặc sửa đổi mang tính chặt chẽ hơn.
Theo đó, dự thảo bổ sung quy định tổ chức tín dụng chỉ có thể mua trái phiếu
doanh nghiệp khi hệ số Nợ/Vốn chủ sở hữu (bao gồm cả khối lượng trái phiếu
doanh nghiệp dự kiến phát hành) không vượt quá 5 lần dựa trên báo cáo tài chính
gần nhất đã được kiểm toán. Điều này có nghĩa là, các doanh nghiệp có mức đòn bẩy
cao hơn mức 5x sẽ không thuộc đối tượng được tổ chức tín dụng mua trái phiếu nữa.
Các
quy định khác quan trọng đối với từng tổ chức tín dụng vẫn được giữ, theo
nguyên tắc: phải có nợ xấu (NPL) < 3%; kiểm soát được mục đích sử dụng vốn;
có phương án khả thi trong việc đảm bảo thanh toán gốc và lãi đúng hạn và doanh
nghiệp không có nợ xấu (từ Nhóm 3 - dưới chuẩn) trong vòng 12 tháng gần nhất
trên Trung tâm Thông tin Tín dụng quốc gia (CIC).
Dù
vậy, Chủ tịch FiinRatings cho rằng, một số điểm được kỳ vọng nhưng dự thảo chưa
đề cập. Đó là, tổ chức tín dụng vẫn không được mua trái phiếu doanh nghiệp của
doanh nghiệp phát hành có mục đích cơ cấu lại các khoản nợ. Điều này sẽ hạn chế
hoạt động tái cơ cấu lại nợ như tinh thần Nghị định 08 vừa qua.
Dĩ
nhiên, để thực hiện được quy định này thì Dự thảo nên quy định các điều kiện cụ
thể như đảm bảo tính pháp lý dự án và phương án tái cấu trúc nợ đảm bảo phù hợp
với quy định về quản lý rủi ro tín dụng nói chung và và chính sách quản trị rủi
ro của mỗi tổ chức tín dụng.